Tư duy nhanh và chậm – Daniel Kahneman

Tư duy nhanh và chậm là một cuốn sách bán chạy nhất được xuất bản năm 2011, tác giả Daniel Kahneman – người đạt giải Nobel Kinh Tế năm 2002. Ông là người chiến thắng giải thưởng Truyền thông Học viện Quốc gia năm 2012 cho công việc sáng tạo tốt nhất giúp công chúng hiểu về các chủ đề trong khoa học hành vi, kỹ thuật và y học.

Cuốn sách tóm tắt
Nghiên cứu mà Kahneman đã thực hiện trong nhiều thập kỷ, hợp tác với Amos
Tversky. Nó bao gồm cả ba giai đoạn trong sự nghiệp của anh ấy: những ngày đầu
anh ấy làm việc về những thành kiến nhận thức, công việc của anh ấy về lý thuyết
triển vọng và sau đó là công việc của anh ấy về hạnh phúc.

Luận điểm trung tâm của cuốn sách là sự phân đôi giữa hai phương thức tư duy: “Hệ thống 1” là nhanh, theo bản năng và cảm xúc; “Hệ thống 2” chậm hơn, cân nhắc hơn và logic hơn. Cuốn sách mô tả những thành kiến nhận thức liên quan đến từng loại suy nghĩ, bắt đầu với nghiên cứu của chính Kahneman về sự ác cảm mất mát.

Từ việc lựa chọn khung cho đến xu hướng của mọi người để thay thế một câu hỏi khó bằng một câu hỏi dễ trả lời, cuốn sách nhấn mạnh nhiều thập kỷ nghiên cứu học thuật để cho rằng mọi người đặt quá nhiều niềm tin vào phán đoán của con người. Cuốn sách Tư duy nhanh và chậm của Kahneman nhằm mục đích làm nổi bật sự khác biệt giữa hai hệ thống suy nghĩ này và cách chúng đi đến các kết quả khác nhau ngay cả khi có cùng các đầu vào.

Cuộc tranh luận giữa Hệ thống 1Hệ thống 2 đi sâu vào lý do cho việc ra quyết định của con người, có ý nghĩa lớn đối với nhiều lĩnh vực bao gồm luật và nghiên cứu thị trường.

Cuốn sách nói về 2 hệ thống khác nhau nhưng thống nhất với nhau mà chúng ta có trong nhận thức: hệ thống 1 thì tự động, còn hệ thống 2 thì hay suy xét. Hệ thống 1 – bản năng, tự động và cảm tính và Hệ thống 2 – chín chắn, chậm rãi, và toan tính. Khi đối đầu với nhau, sự tương tác của chúng quyết định cách ta nghĩ, đưa ra phán xét, quyết định và hành động.

Hệ thống 1 là phần bộ não hoạt động theo trực giác và đột ngột, thường không có sự kiểm soát có ý thức. Bạn có thể trải nghiệm rõ nhất hệ thống này khi bạn nghe thấy một âm thanh rất lớn và đột ngột. Khi ấy bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ ngay lập tức chuyển hướngchú ý của mình đến nó. Đó là Hệ thống 1. Hệ thống này là di sản của quá trình tiến hóa hàng triệu năm, những lợi thế sống còn nằm bên trong khả năng ra quyết định và phán đoán nhanh chóng.

Hệ thống 2 là thứ ta ám chỉ khi tưởng tượng phần bộ não chịu trách nhiệm cho quá trình ra quyết định, lập luận và niềm tin của mỗi cá nhân. Nó điều khiển các hoạt động có ý thức của tâm trí như tự kiểm soát, khả năng lựa chọn và chủ ý tập trung. Hãy thử tưởng tượng, bạn đang lái xe trên đường, tập trung suy nghĩ công việc của ngày mai sẽ làm gì, bạn sẽ không để ý được trên đường có những sự việc gì đang diễn ra.

Khi trí não lười biếng, tính chây ì có thể dẫn đến sai lầm và tác động đến trí tuệ. Hãy thử giải bài toán cây gậy-và-quả bóng nổi tiếng sau để xem cách hai hệ thống hoạt động ra sao: một cây gậy và quả bóng có giá $1.10. Cây gậy đắt hơn quả bóng $1. Vậy quả bóng có giá bao nhiêu?

Mức giá xuất hiện trong tâm trí bạn, $0.10 là kết quả của hệ thống 1 cảm tính và tự động.

Đáp án đúng là $0.05.

Chuyện vừa xảy ra là hệ thống 1 bốc đồng của bạn chiếm quyền và tự động trả lời bằng cách dựa vào cảm tính. Nhưng nó trả lời quá nhanh. Thông thường, khi đối mặt với một tình huống chưa rõ ràng, hệ thống 1 sẽ gọi hệ thống 2 để giải quyết vấn đề, nhưng trong bài toán cây gậy và quả bóng, hệ thống 1 đã bị lừa.

Nó nhìn vấn đề quá đơn giản và sai lầm khi tin rằng nó có làm chủ được. Bài toán cây gậy-và-quả bóng đã bộc lộ bản năng lao động trí óc lười biếng của chúng ta. Khi não hoạt động, ta thường chỉ sử dụng tối thiểu số năng lượng đủ cho công việc đó. Người ta còn gọi đây là quy luật nỗ lực ít nhất.

Bởi vì rà soát lại đáp án với hệ thống 2 sẽ sử dụng nhiều năng lượng hơn, tâm trí sẽ không làm thế khi nó nghĩ chỉ cần dùng hệ thống 1 là đủ. Sự lười biếng rất tai hại do đó tập luyện hệ thống 2 là một phần quan trọng trong trí tuệ của con người. Nghiên cứu chỉ ra rằng làm những công việc liên quan đến hệ thống 2 đòi hỏi tập trung và tự kiểm soát, giúp ta thông minh hơn.

Bài toán cây gậy-và-quả bóng minh họa cho điều này, bởi vì tâm trí của chúng ta lẽ ra có thể kiểm tra lại đáp án bằng cách sử dụng hệ thống 2 và từ đó tránh được lỗi phổ biến. Nếu lười biếng và lười sử dụng hệ thống 2, tâm trí của ta sẽ tự giới hạn sức mạnh thông minh của nó.

Phần tiếp theo, tác giả giới thiệu cho bạn một thủ thuật mà các nhà kinh doanh rất hay dùng, đó là “hiệu ứng mồi”. Trong một thí nghiệm khoa học về sự chú ý của Mackay, ông dùng những từ có nghĩa mập mờ và mỗi ý nghĩa đều có khả năng xuất hiện như nhau, người nghe sẽ nghe một câu chứa từ mập mờ bằng tai chú ý còn tai không chú ý sẽ nghe từ gợi ý.

Kết quả, câu trả lời của người nghe dựa vào từ “mồi” đã được nghe ở tai không chú ý. Vậy, hiện tượng thả mồi này không chỉ ảnh hưởng tới cách ta nghĩ mà còn tới cách ta hành động. Giống như tâm trí bị ảnh hưởng khi nghe một số từ và khái niệm nhất định, cơ thể bạn cũng có thể bị ảnh hưởng.

Đáng ngạc nhiên là, chúng ta hoàn toàn không ý thức được suy nghĩ và hành động của mình bị tác động bởi việc thả mồi. Vì vậy thả mồi cho thấy, trái với lập luận của nhiều người, chúng ta không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát có ý thức những hành động, phán đoán và lựa chọn của mình.

Thả mồi, giống như các nhân tố xã hội khác, có thể ảnh hưởng suy nghĩ và từ đó lựa chọn, phán xét, hành vi của một cá nhân – và chúng lại phản chiếu lại vào văn hóa và ánh hưởng tới kiểu xã hội mà chúng ta đang sống.

Kahneman còn viết về một “khuynh hướng lạc quan thái quá”, đó là ý nghĩa quan trọng nhất trong các khuynh hướng nhận thức. Sự thiên vị này tạo ra ảo tưởng về sự kiểm soát, rằng chúng ta có quyền kiểm soát tất cả trong cuộc sống của chúng ta. Một thí nghiệm cho thấy sự phổ biến của loại lạc quan sai lầm này.

Sai lầm trong kế hoạch của chúng ta là xu hướng đánh giá quá cao lợi ích và đánh giá thấp chi phí, thúc đẩy mọi người tham gia vào các dự án rủi ro. Một ví dụ điển hình là vào năm 2002, việc tu sửa nhà bếp của người Mỹ dự kiến trung bình có giá $ 18,658, nhưng thực sự có giá $ 38,769.

Để giải thích sự tự tin thái quá, Kahneman giới thiệu khái niệm mà ông kết hợp từ hệ thống 1hệ thống 2 là “bạn chỉ biết những điều mà bạn biết” (WYSIATI). Lý thuyết này nói rằng khi tâm trí đưa ra quyết định, nó chủ yếu liên quan đến biết- không biết và những hiện tượng mà nó đã quan sát thấy.

Tâm trí chúng ta hiếm khi xem xét những điều chưa biết, những hiện tượng mà nó biết đều có liên quan đến những điều nó chưa biết nhưng nó không có thông tin chính xác mà thôi. Ông giải thích rằng con người không tính đến sự phức tạp của sự vật, hiện tượng và sự hiểu biết của họ về thế giới bao gồm một tập hợp nhỏ các quan sát chi tiết và nhất thiết phải quan sát nó từ nhiều góc độ khác nhau.

Hơn nữa, tâm trí nói chung không tính đến vai trò của việc sữa chữa sai lầm, do đó giả định sai lầm rằng một sự kiện trong quá khứ sẽ dự đoán được một sự kiện trong tương lai. Ta đóng cửa một tương lai khác thông qua đóng cửa các sự lựa chọn khác. Thí nghiệm được ông đề cập ở đây là các đối tượng được hỏi liệu họ có chọn phẫu thuật hay không nếu tỷ lệ sống sót là 90%, trong khi những người khác được thông báo rằng tỷ lệ tử vong là 10%.

Việc đóng khung sự lựa chọn đầu tiên làm tăng sự chấp thuận, mặc dù xét về cơ hội sống sót là không khác. Thay vì xem xét tỷ lệ cược một khoản đầu tư sẽ mang lại lợi nhuận tích cực, mọi người có xu hướng “ném tiền tốt sau khi xấu” và tiếp tục đầu tư vào các dự án có triển vọng kém đã tiêu tốn nguồn lực đáng kể, một phần là để tránh cảm giác hối tiếc khi mất đi lợi ích.

Kahneman đã phát triển “thuyết triển vọng”- cơ sở cho giải thưởng Nobel của ông, để giải thích cho các lỗi thử nghiệm mà ông nhận thấy trong lý thuyết tiện ích truyền thống của Daniel Bernoulli. Kahneman khẳng định con người đánh giá được/mất hay lợi nhuận/thua lỗ khác nhau, và đưa ra quyết định dựa vào cái được nhiều hơn so với cái mất.

Do vậy, nếu một người nhận 2 lựa chọn tương đương, một cho biết tỷ lệ lợi nhuận và một cho biết tỷ lệ thua lỗ, thì người ta thường chọn phương án đầu – ngay cả khi họ đều đạt kết quả cuối cùng như nhau. Theo lý thuyết triển vọng, thua lỗ gây tác động về mặt cảm xúc nhiều hơn so với một khoản lợi nhuận tương đương. Ví dụ, theo cách suy nghĩ thông thường, lợi nhuận của việc nhận $50 cũng tương đương với lợi nhuận trong trường hợp nhận $100 sau đó thua lỗ $50.

Trong cả hai trường hợp, kết quả ròng chung cuộc đều bằng $50. Mặc cho sự thật là bạn vẫn nắm trong tay $50 dù trong hoàn cảnh nào, thì hầu hết mọi người đều thích chỉ kiếm được $50 hơn là $100 rồi thua lỗ $50.

Lý thuyết triển vọng có thể dùng để lý giải một số hành vi tài chính phi lý trí.

Ví dụ, có người không muốn cất giữ tiền ở ngân hàng để hưởng lãi suất hay từ chối làm thêm giờ vì không muốn trả thêm thuế. Mặc dù những người này có thể hưởng lợi về mặt tài chính từ thu nhập sau thuế, lý thuyết triển vọng cho thấy lợi ích từ số tiền kiếm thêm không đủ để vượt qua cảm giác mất mát bởi việc trả thêm thuế.

Lý thuyết triển vọng cũng lý giải sự xảy ra của hiệu ứng ngược vị thế (disposition effect), liên quan đến xu hướng nhà đầu tư giữ các cổ phiếu thua lỗ quá lâu và bán các cổ phiếu lợi nhuận quá sớm. Trong khi đó hành động hợp lý đáng ra phải giữ cổ phiếu lợi nhuận và bán các cổ phiếu thua lỗ.

Về việc bán non các cổ phiếu có lợi nhuận, ta có thể xem xét nghiên cứu của Kahneman về vấn đề con người thường thỏa hiệp với lợi nhuận chắc chắc là $500 hơn so với một lựa chọn mạo hiểm với khả năng đem lại $1000 hoặc 0 có đô nào.